Văn hóa Phù_Lưu_(làng_cổ)

Đình, đền, chùa

Cụm di tích làng Phù Lưu bao gồm đình, đền, chùa nằm trên trục đường chính của làng.

Đình Phù Lưu là ngôi đình cổ có diện tích 426,7 m2, được xây dựng vào cuối thế kỷ XVI. Cuối thế kỷ XVIII, đình được mở rộng và tu sửa lại. Ngôi đình có kiến trúc và nghệ thuật chạm khắc gỗ độc đáo, mang tính cách điệu hóa cao. Đình thờ Thành hoàng làng và ông Lê Trần Cổ, người khởi dựng đình[5].Ngay bên phải đình là Pháp Quang tự - một ngôi chùa có kiến trúc độc đáo. Văn bia năm 1697 còn dòng chữ "Pháp Quang quán hưng công thủy tạo thạch trụ kính thiên đài" (nghĩa là: Bắt đầu làm trụ đá kính thiên của Pháp Quang quán). Điều này đưa đến giả thiết chùa trước là đạo quán. Tiếc rằng không có thêm tư liệu để khẳng định. Đền thờ Đức Thánh Tam Giang tức hai anh em Trương Hống - Trương Hát, thần tích ghi là hai danh tướng của Triệu Quang Phục chống quân Lương vào thế kỷ VI. Theo nhiều tài liệu, đây là truyền thống thờ thủy thần (ông Cộc ông Dài) của rất nhiều làng quê Kinh Bắc, đặc biệt các làng quê dọc bờ con sông Tiêu Tương cổ.

Không gian ngôi đình được miêu tả như sau:

Đình có cấu trúc kiểu chữ "đinh". Đại đình gồm bảy gian, hai chái, hai dĩ. Gian giữa rộng 4 m, sáu gian bên mỗi gian rộng 3,65 m, hai gian chái mỗi gian rộng 1,5 m, hai dĩ mỗi dĩ rộng 1,1m. Kết cấu gồm sáu vì gồm 70 cột lớn nhỏ. Mái lợp ngói mũi hài, bờ dải gắn gạch hộp hoa chanh, bốn đầu đao uốn cong thanh thoát.

Hầu hết các đầu dư, cốn, ván nong, cửa võng... đều được chạm trổ. Đặc biệt, trên ván nong chạm nổi hình rồng chầu mặt nguyệt, trên lưng có hình tiên nữ cánh phượng, hình người đánh đàn, hình tiên nữ ngồi trên đầu nghê ở trụ cốn, đoàn người đua thuyền, cảnh đấu vật trong ngày hội. Các mảng chạm khắc đều có niên đại khoảng thế kỷ XVII.

Bức cửa võng chạm đôi rồng chầu mặt nguyệt, dưới có năm chữ Hán: "Thánh cung vạn vạn tuế". Hai riềm ở hai cột cũng là đôi rồng, đầu chúc xuống dưới. Phần dưới cũng là đôi rồng chầu mặt nguyệt, có xen hoa lá và chim muông[5]

Đình, đền, chùa làng Phù Lưu đã được Nhà nước công nhận di tích lịch sử văn hóa.

Lễ hội

Hội làng Phù Lưu được tổ chức vào mồng 8 tháng 3 âm lịch hàng năm. Hội thờ Phật và Thành hoàng. Thành hoàng của làng là Đức thánh Tam Giang. Tên gọi Tam Giang xuất phát từ tên gọi mà các triều đại Phong kiến Việt Nam phong cho hai ông: Tam Giang thượng đẳng thần. "Tam Giang" còn bắt nguồn từ cách gọi chung của ba con sông là sông Cầu, sông Thương, sông Đuống - nơi có nhiều đền thờ hai ông. Hai anh em ngài được đánh giá, đều là bậc tướng, trí dũng song toàn, "sinh vi dũng tướng, tử vi minh thần".Trương Hống, Trương Hát sinh ra trong một gia đình gồm năm anh em, bốn trai, một gái. Ba người còn lại trong gia đình là Trương Lừng, Trương Lẫy, và người con gái là Trương Đạm Nương. Năm anh em sinh ngày 15, tháng Giêng, năm Nhâm Ngọ (502), người làng Vân Mẫu, xã Vân Mẫu, huyện Quế Dương (sau là Võ Giàng), quận Vũ Ninh, xứ Kinh Bắc, (nay là thôn Hai Vân, phường Vân Dương, thành phố Bắc Ninh). Hưởng ứng lời kêu gọi của Triệu Quang Phục các ngài đã nhập nghĩa quân và gúp Triệu Quang Phục đánh đuổi giặc Lương. Sau khi chiến thắng giặc Lương, Triệu Việt Vương kéo quân về Long Biên sang sửa đô thành.Nước nhà độc lập, Triệu Quang Phục lên ngôi vua, phong thưởng cho các tướng có công đánh giặc. Vua Triệu phong thực ấp cho hai anh em họ Trương ở Kinh Bắc, Trương Hống ở làng Tiên Tảo, huyện Kim Anh (nay là thôn Tiên Tảo, xã Việt Long, huyện Sóc Sơn), Trương Hát ở làng Tam Lư, huyện Đông Ngàn (nay là thôn Tam Lư, Từ Sơn, Bắc Ninh) là nơi dấy binh cũ.

Được tin Triệu Quang Phục lên ngôi vua, Lý Phật Tử (người họ Lý Nam Đế) đã đem quân đánh lại nhưng không thắng, bèn dùng kế cầu hôn gả con. Trương Hống và Trương Hát đã can Triệu Việt Vương đừng gã Cảo Nương cho Nhã Lang. Nhưng Triệu Quang Phục không nghe, mắc mưu của Lý Phật tử, rồi bị đánh úp. Lý Phật tử lên ngôi vua tự xưng là Hậu Lý Nam Đế và biết các ông là tướng tài giỏi bèn cho người vời ra làm quan. Song các ông nhất lòng trung quân không theo Lý Phật tử, thưa lại rằng: Tôi trung chẳng thờ hai vua, gái trinh chẳng đổi hai chồng, huống hồ ngươi là người bội nghĩa mà còn muốn khuất cái tiết bất di dịch này ư? Biết không thể khuất phục được, Lý Phật tử lệnh truy bắt các ông khắp nơi. Các ông trốn vào ở núi Phù Long; Nam Đế nhiều lần cho người đến truy nã không được, mới treo ngàn vàng cầu người bắt. Các ông bàn nhau cùng đem gia quyến xuôi dòng sông Cầu, uống thuốc độc để giữ trọn tấm lòng trung với vua. Nhân dân dọc theo sông Cầu và các nơi các ông từng đóng quân đánh giặc đã vô cùng khâm phục, thương tiếc, lập đền thờ làm Thần.

Lễ hội làng Phù Lưu - Chợ Giàu thể hiện lối sinh hoạt văn hóa của các cư dân nông nghiệp nói chung và người Kinh Bắc nói riêng. Hội có những trò vui: đánh cờ, đấu vật, bơi, rước ngựa chiến, chọi gà, cầu lông, bóng chuyền... Các cuộc thi như thi thổi xôi, làm cỗ gà, làm bánh vừng, chè đu đủ, dệt vải, bình thơ, xướng đối... Ngoài ra còn có các điếm hát quan họ ở ngoài đồi, trong nhà, trên thuyền[6].

Khảo cổ

Năm 1962, ở khu vực Bãi Mịn đã phát hiện nhiều di chỉ khảo cổ thuộc thời đại đồ đá mới. Quá trình khảo cổ tại Phù Lưu đã cho thấy dấu vết của một công xưởng chế tạo đá (Bãi Tự) có quy mô khá lớn. Ở đây, người ta đã tìm thấy hàng trăm lưỡi cưa và mũi khoan đá, cùng rất nhiều phế vật, phác vật. Di chỉ này trải rộng và lan cả đến địa phận xã Tương Giang. Đặc biệt di chỉ ở đây còn mang nhiều yếu tố của văn hoá sơ kỳ thời đại đồng thau của Việt Nam, thuộc giai đoạn Phùng Nguyên muộn - Đồng Đậu sớm[2].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phù_Lưu_(làng_cổ) http://www.trithucviet.eu/Vietnamese/Van-Hoa&actio... http://antgct.cand.com.vn/vi-VN/nhanvat/2007/2/516... http://www.google.com.vn/url?sa=t&source=web&ct=cl... http://www.google.com.vn/url?sa=t&source=web&ct=cl... http://www.laodong.com.vn/Home/Mot-nguoi-viet-tu-t... http://www1.laodong.com.vn/sodara/xuan2004/xahoi/t... http://www.binhthuan.gov.vn/KHTT/vanhoa/0001/0001/... http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/vanhoa/0000/0000/... http://www.cinet.gov.vn/sacmau/choque/choque.html http://hnv.vn/News.Asp?Cat=5&SCat=&Id=502